Monday, February 9, 2015



Những bài thuốc cổ phương được baithuoc.vn tìm hiểu và giải nghĩa giúp độc giả, người bệnh hiểu rõ hơn về thành phần, công dụng của những bài thuốc này

1, TẢ TÂM THANG

Đại hoàng (sao rượu) 2 chỉ

Hoàng Liên (Sao rượu) 3 chỉ

Hoàng Cầm (Sao rượu) 4 chỉ

Tâm là quân hỏa, hóa sinh ra huyết dịch, vậy huyết là phách của hỏa, hỏa tức thị hồn của huyết, hỏa thăng nên huyết thăng, hỏa giáng nên huyết giáng. Biết rằng huyết sinh ra ở hỏa, hỏa chủ ở tâm thì biết rằng tả tâm nghĩa là tả hỏa, tả hỏa tức là chỉ huyết. Đắc lực nhất là một vị Đại hoàng, bẻ gãy cái thế hỏa hừng mà giáng xuống, lại kiêm phá huyết trục ứ để khỏi làm hại. Vị này thế gian nay phần lớn không ai dám dùng, không biết rằng khí nghịch huyết thăng được vị thuốc này giáng xuống rất mạnh để bẻ gãy thế của dương mà hòa âm, thực là thánh dược vậy !

vả chăng, không chỉ hạ khí ở Vị mà thôi, bên ngoài kinh mạch cơ phụ, hễ chỗ nào khí nghịch ở trong huyết phận, tính của Đại hoàng nơi nào nó cũng chạy suốt đến cả. Vì hơi thuốc rất mạnh, hễ người nào khí huyết bị ngưng tụ đều xài được cả, làm cho khí nghịch phải thuận ngay. dương thế nay không dám dùng nên thường lưu tà lại trong thân thể rất đáng tiếc.

Bài thuốc gọi là Tả Tâm thang của Ông Trọng Cảnh, xét đến nguồn cội mà chữa theo bài thuốc này mà biết được huyết sinh ra ở tâm, tâm nghĩa là hỏa thì về huyết chứng luận đã biết được quá bán vậy !

2, THẬP KHÔI TÁN

Đại kế trắc bách diệp

Tiểu kế Đại hoàng

Mao căn Đơn bì

Tông lư Hà diệp

Thuyến thảo Chi tử

Các vị trên bằng nhau đốt tồn tính, giải trên đất để tiết hết hỏa độc, dẫn bằng đồng tiện hoặc rượu hoặc nước đen là màu sắc của thủy, khi đỏ thấy đen thì ngừng (kiến hắc tắc chỉ) tức là thủy đã thắng hỏa vậy, do vậy đốt tồn tính thanh đen; đắc lực ở Sơn chi thanh hỏa, Đại hoàng giáng khí, hỏa thanh khí giáng thì huyết được yên. Còn các vị khác đều là thuốc hành huyết, chỉ nhờ để hướng đạo vậy. Thổi vào mũi để cầm máu cam, bôi vào vết thương để chỉ huyết đều dùng được cả.

3, CAM THẢO CAN KHƯƠNG THANG

Cam thảo (nướng) 3 chỉ

Ngũ vị (sao mật) 1 chỉ

Can khương (sao cháy) 2 chỉ

Cam thảo nướng qua thuần về bổ trung, Can khương sao đen thì chuyên về chỉ huyết, hai vị cay ngọt hợp hóa phù dương để đạt ra bốn phía huyết tự vận hành mà không trệ vậy. Ngũ vị thu liếm phế khí để không nghịch lên, lấy chỉ khí mà chỉ huyết. Phàm chứng dương hư tỳ không nhiếp huyết, nhưng huyết vốn là âm trấp, huyết thiếu tức thị âm thiếu, những thuốc cương táo thường kỵ dùng, phải xét kỹ mạch chứng, thật là hư hàn mới được dùng phương này.

4, TỨ VẬT THANG

Đương quy 4 chỉ

Sinh địa 4 chỉ

Xuyên khung 2 chỉ

Bạch thược 3 chỉ

Ông Kha Vâng Bá bàn rằng: Tâm sinh huyết, can tàng huyết, thành ra phàm muốn sinh huyết phải xét ở tâm, muốn điều huyết thì nên cần ở can vậy. Phương này chuyên về can kinh điều huyết, không phải là phương tâm kinh sinh huyết.

Đương quy hòa huyết, Xuyên khung hoạt huyết, Bạch thược liễm huyết, Địa hoàng bổ huyết. Bốn vị đủ cả tác dụng Sinh – Trưởng – Thu – Tàng thành ra có thể làm cho vinh khí lặng đi ở trong kinh lạc.

Nếu huyết hư thì gia Sâm, Kỳ; huyết kết thì gia Đào nhân, Hồng hoa; huyết bế gia Đại hoàng, Mang tiêu; huyết hàn gia Quế phụ; huyết nhiệt gia Cầm, Liên. Tùy nghi mà gia giẩm, không câu nệ ở cái tên Tứ vật

Nếu gặp những chứng huyết băng, huyết vựng không nên vội bổ bằng thang Tứ vật mà trái lại giúp cho cái thế hoạt thoát, nên bổ khí sinh huyết, giúp cho lẽ dương sinh âm trưởng, vì phương này có thể bổ huyết chất hữu hình trong lúc thường ngày mà không thể sinh huyết vô hình một cách vội vàng. Phương này điều huyết ở trong âm nhưng không thể bổ dưỡng gốc ở chân âm.

Ông Kha Vâng Bá bàn đây tuy rằng không đủ nghĩa với thang Tứ vật, song nói rằng Tứ vật là phương thuốc chuyên điều huyết của can kinh thì biết sâu xa về sở trường của nó, vì can chủ tàng huyết Xung, Nhung huyết hải đều thuộc can, vì thế việc điều huyết mà bỏ không dùng Tứ vật là chẳng thể thành công được.

5, ĐƯƠNG QUY LÔ HỘI HOÀN

Quy 1 lạng Hoàng Liên 1 lạng

Long đảm thảo 1 lạng Hoàng bá 1 lạng

Lô hội 5 chỉ Hoàng Cầm 1 lạng

Thanh đại 5 chỉ Đại hoàng 5 chỉ

Chi tử 1 lạng Mộc hương 2,5 chỉ

Xạ hương 5 phân

Trước dùng Thần khúc nếu hồ làm hoàn, uống với nước gừng để trị huyết bệnh, dùng rượu làm hoàn uống bằng đồng tiện thì tốt hơn. Người ta chỉ có can hỏa rất ngược ngạo thường đem hỏa của các kinh cùng nhau làm hại. Phương này dùng Thanh đại, Lô hội Long đảm thảo bẻ thẳng vào hỏa của can kinh.

Cầm, Liên, Chi, Bá, Đại hoàng chia nhau mà tả hỏa của các kinh, hỏa thịnh thì khí thực, thành ra lấy hai vị Hương để hành khí, hỏa thịnh thì huyết hư thành ra lấy Đương quy làm quân để bổ huyết.

Trị can hỏa quyết liệt chỉ có phương này là có lực lượng, không nên tỵ hiềm rằng tả nhiều bổ ít.

Xem thêm các bai thuoc hay



Nấm là thực phẩm có hàm lượng calo thấp, do đó những người béo phì nên dùng. Bệnh nhân đái đường cũng nên ăn nấm vì nó ít chất đường lại làm giảm cơn đói. Trong thực đơn ít cholesterol của người cao huyết áp cũng nên có nhiều nấm.

Năm ăn thông dụng là nấm rơm, mộc nhĩ (mộc nhĩ), nấm bào ngư.

Nấm rơm dễ trồng, thu hoạch nhanh và năng suất cao. Phong trào trồng nấm rơm khá phổ biến ở các nơi có nhiều rơm dạ. Nấm rơm tươi có nhiều nước, trong 100g nấm tươi có 3,4 – 4,5g chất đạm, 1,8g chất béo, ngoài ra còn có các khoáng chất và chất xơ. Trong 100g nấm rơm khô có 49g chất đạm, 20g chất béo.

Cây nấm rơm

nấm mèo khô có 13,8/100g chất đạm, nhiều chất xơ và khoáng chất, gồm cả calcium và sắt.
Nấm bào ngư có lượng đạm gấp đôi rau quả, nhiều vitamin B1, B2 và đầy đủ các chất khoáng cấp thiết cho thân thể, nhất là calcium, photpho và sắt với tỷ lệ gấp đôi so với thịt.
Nấm là thực phẩm có hàm lượng calo thấp, do đó những người béo phì nên dùng. Bệnh nhân đái đường cũng nên ăn nấm vì nó ít chất đường lại làm giảm cơn đói. Trong menu ít cholesterol của người cao huyết áp cũng nên có nhiều nấm. Trong nấm có ít ion natri nên dùng cho người viêm thận hoặc suy tim có chứng phù cũng rất hợp. Nấm có nhiều acid folic hơn thịt và rau nên giúp phòng chống bệnh thiếu máu.

Do có nhiều chất xơ, nấm có tính nhuận trường. Thống kê cho thấy tỷ lệ ung thư đại tràng thấp ở vùng dân ăn nhiều nấm và cao ở vùng dân ăn nhiều thịt. Trường Đại học Tokyo công bố rằng dịch chiết nấm ăn bằng cồn có tính trị ung thư ở chuột.
Dân gian thường dùng mộc nhĩ để trị các bệnh rối loạn đường ruột, đau cổ họng, thanh lọc máu. Đông y quan niệm rằng mộc nhĩ làm nhẹ mình, ích khí, cường chí.
Nấm không có diệp lục tố, không tự sản xuất được carbonhydrat như cây xanh, chúng sống nhờ vào cây mà chúng bám vào. Do đó nấm lành hay độc phần nào tùy thuộc vào môi trường cấy. Tốt nhất nên gieo cấy nấm mèo bằng mạt cưa trong bịch nylon nên chọn mùn cưa của loại gỗ cây không độc.

Việc thu hoặch nấm hoang dại cần phải có kinh nghiệm. Đã có rất nhiều trường hợp trúng độc nấm gây tử vong. Nấm độc thường có mầu sặc sỡ hoặc ánh bạc. Khí nấu chín mà nấm có mùi vị khác lạ thì không nên ăn.

Xem thêm các bai thuoc hay



Cây Sen có tên khoa học là Nelumbo nucifera. Trong số các cây thuốc, sen là cây thuốc độc đáo, cả cây dùng làm thuốc, mỗi bộ phận lại có tính trị liệu khác nhau.
Ngó Sen

Ngó Sen

Ngó Sen hay liên ngẫu là phần rễ ở dưới nước, mầu trắng, xốp, bên trong có nhiều ống dọc nhỏ, nhựa dính sít. Ngó sen vị nhạt, tính mát, không độc. Trong ngó sen có những chất bổ quí như asparagin, acginin.

Cây Sen có tên khoa học là Nelumbo nucifera. Trong số các cây thuốc, sen là cây thuốc độc đáo, cả cây dùng làm thuốc, mỗi bộ phận lại có tính trị liệu khác nhau.

Cay-Sen

Cây Sen

– Lá sen, cuống sen, vỏ hạt sen: dùng chữa ỉa chảy, cầm máu.

– Hoa sen: dùng để an thần, cầm máu.

– Nhụy sen, tua sen: có tác dụng thanh tâm, thông thận, cầm máu, cố tinh.

– Hạt sen: bổ dương, bổ tâm tỳ, ích khí, an thần.

– Tâm sen: an thần, trị nhịp tim nhanh, khó ngủ, hay mơ.

– Củ sen: dưỡng tâm, bổ tỳ, cố tinh.

Tác dụng của ngó sen sống và ngó sen chín khác nhau. Ngó Sen sống có tác dụng thanh nhiệt, chỉ khát, an thần, làm nhẹ dạ dày và giải độc rượu. Người ta dùng ngó sen để trị nhức đầu, mất ngủ, táo bón. Ngó Sen nấu chín làm mạnh tỳ vị, bổ tâm huyết, giải độc do ăn phải cua độc. Ngó Sen chín còn có tác dụng nhuận tràng. Người ta thường nấu canh hay làm nộm ngó sen làm cho uống rượu không say, ngó sen dùng cho người bệnh đái đường rất tốt vì nó có tác dụng thanh nhiệt, chỉ khát.

Ngoài tác dụng trị liệu, Sen còn là cây cảnh rất đẹp và nên thơ.

Trong đầm gì đẹp bằng sen

Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng

Nhị vàng bông trắng lá xanh

Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn

Xem thêm các bài thuốc dân gian

Sunday, February 8, 2015



Trong dân gian, quả khổ qua thường được dùng làm các món ăn hàng ngày như: mướp đắng nhồi thịt nấu canh, khổ qua xào trứng, khổ qua sống ướp lạnh ăn với ruốc, mướp đắng muối chua… đều là những món được nhiều người ưa chuộng và có tác dụng trị bệnh tiểu đường.

khổ qua còn gọi là mướp đắng (không phải là Khổ quá), có tên khoa học là Monardico charantin. Quả mướp đắng có vị đắng, tính hàn, không độc, có tác dụng thanh nhiệt, mát tim, sáng mắt, nhuận tỳ, bổ thận, nuôi can huyết, bớt mệt mỏi, trị chứng tiêu khát (tiểu đường), trị đái dắt, phù thũng do can nhiệt. Hạt khổ qua có tách dụng ích khí, tráng dương. Nước sắc lá mướp đắng kích thích sự tiết mật, trị sốt cao, cũng dùng để trị bệnh tiểu đường. Dây khổ qua nấu nước tắm trị rôm sẩy trẻ con.

Trong dân gian, quả mướp đắng thường được sử dụng làm các món ăn hàng ngày như: khổ qua nhồi thịt nấu canh, mướp đắng xào trứng, khổ qua sống ướp lạnh ăn với ruốc, khổ qua muối chua… đều là những món được nhiều người ưa chuộng và có tác dụng trị bệnh tiểu đường.

Ăn uống là mạch sống của con người. Nếu ăn uống có chừng đỗi, đúng cách thì tỳ vị điều hòa, tạng phủ bình yên. Việc điều hòa ngũ vị (chua, đắng, ngọt, cay, mặn) rất quan yếu, ăn nhiều vị nào quá cũng không tốt. do vậy trong Nội kinh có câu:

“Ăn là nuôi sự sống, cái ích đó do ta làm nên

Ăn là hại sự sống, cái hại đó cũng do ta làm nên”

Xem thêm các bai thuoc hay

Thursday, February 5, 2015



Rau Rút vị ngọt nhạt, tính hàn, không độc, trơn hoạt. Nó có tính bổ trung ích khí, làm dễ ngủ, mát ruột dày, mạnh bổ gân xương, trị mất ngủ rất tốt.

Rau Rút có tên khoa học là Neptunia Oleracea. Đông y gọi là Quyết thái. Cây này mọc bò trên mặt nước. Thân cọng được bao bọc bởi một lớp phao trắng xốp như bông gòn. Lá hai lần kép, cuống phụ xếp theo hình chân vịt, khẽ động vào là lá cụp lại.

Rau rút thường được nấu chung với các rau khác trong một số món ăn hằng ngày như món canh cua khoai sọ, bánh đa cua, rau muống luộc,… đều là những món rất được ưa chuộng của người Việt Nam.

Cây rau Rút

Khi có được rau Rút cọng non và dài, nhiều người thích ăn nó như rau sống. Lại có người ăn rau Rút sống chấm với mắm tép, mắm tôm, lẩu mắm.

Rau Rút có tên khoa học là Neptunia Oleracea. Đông y gọi là Quyết thái. Cây này mọc bò trên mặt nước. Thân cọng được bao bọc bởi một lớp phao trắng xốp như bông gòn. Lá hai lần kép, cuống phụ xếp theo hình chân vịt, khẽ động vào là lá cụp lại.

Rau Rút vị ngọt nhạt, tính hàn, không độc, trơn hoạt. Nó có tính bổ trung ích khí, làm dễ ngủ, mát ruột dày, mạnh bổ gân xương. quần chúng. # thường dùng rau Rút trị mất ngủ rất tốt.

Con người thụ khí âm dương của trời đất bởi vậy mọi biến hóa của trời ơi đất hỡi đều ảnh hưởng đến con người. Nói đến âm dương là nói đến đêm ngày. Con người cũng biết sống theo qui luật thiên nhiên, ngày thức đêm ngủ thì cuộc sống sẽ thoải mái, thân thể nhẹ nhàng khoan khoái. Những người cưỡng lại với chu kỳ biến hóa của âm dương, ngày ngủ đêm thức thì thần khí không vững, thân mỏi mệt. Khoa học hiện đại cũng đồng tình về quan điểm này, người ta gọi đó là nhịp sinh học.

Ở tuổi thanh niên, huyết khí thịnh, cơ nhục suôn sẻ, kinh mạch thông thuộc thành ra ban ngày sảng khoái, ban đêm ngủ yên. Khi có tuổi, huyết khí suy, cơ nhục khô ráo, kinh mạch bê trệ, bởi thế ban đêm khó ngủ, ban ngày đê mê.

Đối với người mất ngủ, uống thuốc chỉ là trị ngọn, cần phải tìm biết nguyên nhân để trị tận gốc, đồng thời duy trì nếp sống điều độ, thư giãn ý thức, dùng những món ăn thích hợp, tập thể dục nhẹ nhàng… Cần phối hợp nhiều mặt mới mong hết bệnh tận gốc và sức khỏe mau bình phục.

(Minh Khuê – sưu tầm)

Xem thêm các bài thuốc hay



Rau sam là một vị thuốc tốt, không độc mà lâu nay chưa được quan hoài đúng mức thật là uổng.

Rau sam có tên khoa học là Portulaca olerruccea. Trong rau sam có một ít vitamin A, B1, C, PP, caroten, saponi, glucozid, acid hữu cơ có khoảng 1% ion kali. Một số tính trị bệnh của rau sam là do nó có kali. Rau sam có vị chua, tính mát. Nó có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, tiêu viêm, khử trùng, thông tiểu, nhuận tràng, giải độc, giảm Cholesterol rất hiệu quả. Đặc biệt là trị được giun kim và lị trực trùng. Ăn rau sam luộc giúp thông tiểu trị thủy thũng và giải độc.

Rau Sam giảm Cholesterol hiệu quả

Rau sam luộc chấm muối vừng có tính nhuận tràng. Cả rau sam và vừng đều có tính nhuận trường: rau sam nhuận trường có lẽ do chất sơ và saponin, vừng nhuận trường do có tính trơn nhuận của chất dầu.

Nước sắc rau sam dùng để trị lỵ trực trùng (sắc từ 250g rau tươi). Tác dụng trị lỵ trực trùng của rau sam đã được nhiều công trình khoa học kiểm chứng và công nhận. Nước rau sam còn dùng để trị giun kim, uống nước của 50g rau trong 5 ngày.
Rau sam tươi giã nát đắp ngoài da trị mụn nhọt, chóc lở. Có người còn đắp lên vết “giời leo” cho đỡ đau nhức.

Tuệ Tĩnh có ghi cách trị độc bằng rau sam như sau: giã nát vắt lấy nước rau sam, uống nhiều lần.
Rau sam có tác dụng làm giảm hấp phụ cholesterol trong thức ăn, rất tốt cho người bị chứng cholesterol máu cao.

Xem thêm các bài thuốc hay

Wednesday, February 4, 2015



Khoai sọ là thực phẩm chứa nhiều chất dinh dưỡng như: tinh bột, protid, lipid, galactose, Ca, P, F; các vitamin A, B, C và nhiều axit amin cấp thiết cho cơ thể. Những món ăn từ khoai sọ còn có tác dụng chữa bệnh.

Theo y khoa cựu truyền, củ khoai sọ có vị ngọt hơi the, trơn, tính bình, có tác dụng ích khí bổ thận, điều hòa nội tạng, bổ hư tổn, trừ đàm tiêu thũng.

Khoai sọ là thực phẩm chứa nhiều chất dinh dưỡng như: tinh bột, protid, lipid, galactose, Ca, P, F; các vitamin A, B, C và nhiều axit amin cần thiết cho cơ thể. Những món ăn từ khoai sọ còn có tác dụng chữa bệnh.

Theo y khoa cổ truyền, củ khoai sọ có vị ngọt hơi the, trơn, tính bình, có tác dụng ích khí bổ thận, điều hòa nội tạng, bổ hư tổn, trừ đàm tiêu thũng. Thường dùng để chữa suy nhược thân, hư lao yếu sức, kém ăn, mất ngủ,…

Một số món ăn chữa bệnh từ khoai sọ
  • Xương lợn hầm khoai sọ: Khoai sọ 60g, xương cẳng hoặc xương sống lợn 100g. Khoai sọ gọt vỏ rửa sạch, xương lợn chặt thành đoạn ngắn, thêm muối, nước, gia vị. Đun nhỏ lửa trong 2 giờ, ăn ngày 2 lần, có tác dụng khu phong trừ thấp. Dùng cho các trường hợp nổi ban dị ứng, đau nhức thủ túc.
  • Cháo khoai sọ, củ mài: Khoai sọ 200g, sơn dược (củ mài) 50g, gạo tẻ 50g, nấu cháo ăn trong ngày. liền ăn món cháo này có tác dụng ích khí (tăng thể lực), bổ tỳ vị (tăng cường chức năng tiêu hóa), dùng chữa chứng đuối sức, mỏi mệt, kém ăn, miệng khát.
  • Canh khoai sọ thịt lợn: Khoai sọ 100g, thịt lợn nạc 50g nấu canh ăn trong các bữa cơm. Tác dụng bổ âm, chống khô khát, ích khí, nuôi dưỡng bao tử, chống mệt mỏi. Có thể dùng để tẩm bổ cho những trường hợp thân suy nhược, phiền khát sau khi bị bệnh.
  • Chè khoai sọ táo tàu: Khoai sọ 250g (gọt vỏ thái thành miếng nhỏ), táo tàu 50g, đường đỏ 50g, nấu nhỏ lửa thành món chè, chia 3 – 4 lần ăn trong ngày. Dùng để bồi dưỡng cho những trường hợp cơ thể suy nhược, phiền khát sau khi ốm dậy.
  • Canh cua khoai sọ rau rút: Cua đồng 200g, khoai sọ 60g, rau rút 1 mớ. Cua đồng rửa sạch, bỏ yếm và mai, giữ lại gạch cua, giã nát, lọc lấy nước, cho mắm muối vừa ăn; Khoai sọ cạo bỏ vỏ, rửa sạch bổ miếng vừa ăn: Rau rút nhặt lấy phần lá, cọng non, bỏ rễ và bấc, rửa sạch. Cho khoai vào nước cua, nấu đến khi khoai chín nhừ, cho rau rút vào, đun vừa chín là được. Dùng món ăn này rất tốt cho người tâm cảnh phấp phỏng, kém ăn, ít ngủ.
  • Canh khoai sọ đậu ngự: Khoai sọ 300g, đậu ngự 100g, dầu ăn, gia vị vừa đủ. Khoai sọ gọt vỏ, rửa sạch, ngâm với nước muối cho sạch nhớt. Đậu ngự rửa sạch, ngâm nước cho mềm, luộc qua. Làm nóng chảo dầu, cho khoai sọ vào xào qua rồi cho nước vào nấu khoảng 10 phút. Cho tiếp đậu ngự vào hầm. Khi đậu và khoai nhừ, thêm gia vị, ăn nóng. Ăn trực tính món này rất tốt cho não và cải thiện chứng suy nhược trí tưởng, ăn nhập với người bệnh suy nhược thân, hư nhược tâm thần, người mới ốm dậy.

Xem thêm các bài thuốc dân gian